Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

Báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX với việc đánh giá vai trò và địa vị của phụ nữ * Việt Nam trong lịch sử


 Đặng Thị  Vân Chi                                                           
                                                               
1. Đặt vấn đề.
Trong 30 năm đầu của thế kỉ XX, do tác động của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, đời sống kinh tế, chính trị và văn hoá của phụ nữ Việt Nam có những thay đổi to lớn. Ngay từ khi xuất hiện lực lượng công nhân đầu tiên đã có mặt của những người phụ nữ lao động làm thuê và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thuộc địa, của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ nữ công nhân tăng lên nhanh chóng.Theo Niên biểu thống kê Đông Dương thì tỉ lệ nữ công nhân năm 1908 là 41%, đến năm 1912 là 45%. Trong một số ngành như ngành dệt, nữ công nhân chiếm đến 71%. Do không được học hành, số nữ công nhân có trình độ chuyên môn rất ít. Hầu hết phụ nữ phải làm những công việc chân tay giản đơn. Một ngày làm việc của họ thường kéo dài từ 12 giờ( như ở nhà máy Diêm Bến Thuỷ), cho đến 20 giờ ( như ở mỏ than Kế Bào) . Trong khi đó tiền lương của nữ công nhân chỉ bằng2/3 lương của công nhân nam vốn đã rất thấp. ở khu vực nông thôn, phụ nữ nông dân bị đẩy vào cảnh ở đợ, làm thuê, biến thành tá điền bởi gánh nặng tô thuế. Cùng đường, họ bị đẩy ra thành phố, bổ xung vào đội ngũ nữ công nhân, đi ở, làm điếm... trở nên đói nghèo và là nạn nhân của văn minh tư bản. Năm 1931, dân số Hà Nội không quá 10 vạn người mà đã có tới hơn 100 nhà thổ...
Bên cạnh những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội của tầng lớp phụ nữ lao động, trong những năm đầu thế kỉ XX, ở Việt nam còn xuất hiện tầng lớp phụ nữ tiểu tư sản thành thị gồm những người thợ thủ công tiểu thương, vợ con các viên chức làm việc trong các công sở của Pháp và của tư nhân, các nữ công chức và các nữ học sinh...
Tất cả những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam nói chung và trong điều kiện của  phụ nữ Việt Nam nói riêng cùng với sự du nhập những tư tưởng dân chủ tư sản từ bên ngoài vào, sự xuất hiện và ngày càng có vai trò lớn của tầng lớp tiểu tư sản thành thị... đã dần dần xuất hiện vấn đề phụ nữ bên cạnh các vấn đề xã hội khác .
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí xuất hiện và cùng với sự xuất hiện của báo chí các vấn đề về phụ nữ được nêu lên như một vấn đề của xã hội. Có thể nói, ở Việt Nam vấn đề phụ nữ được báo chí quan tâm từ khá sớm. Ngay từ năm 1907, khi báo chí tiếng Việt còn rất hiếm hoi thì trên Đăng cổ tùng báo đã xuât hiện mục “ Nhời đàn bà ’’ với bút danh phụ nữ Đào thị Loan. Tờ báo Phụ nữ đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam là báo Nữ giới chung xuất bản năm 1918 do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Cho đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Việt nam có 8 tờ báo phụ nữ bằng tiếng Việt được xuất bản ở cả ba kì, tại ba thành phố lớn : Hà Nội - Huế - Sài Gòn. Từ sự ra đời của báo Phụ nữ Tân văn năm 1929 cho tới năm 1945, ỏ Việt Nam luôn tồn tại ít nhất một tờ báo phụ nữ. Tờ này đình bản thì lại có một tờ khác ra đời. Điều này không chỉ phản ánh vai trò của phụ nữ Việt Nam trong xã hội mà còn cho thấy tầm quan trọng của vấn đề phụ nữ như là biểu hiện của những thay đổi, những mâu thuẫn xã hội giữa buổi giao thời. Vấn đề này còn thể hiện ở chỗ không phải chỉ có các báo phụ nữ mới đề cập đên vấn đề phụ nữ mà hầu hết các báo đều quan tâm đến vấn đề phụ nữ như Nam Phong đăng khá nhiều bài về Nữ học, nữ quyền hoặc An Nam tạp chí trong những năm 1930 thường xuyên có mục  Nữ giới tùng đàm.
Nội dung của vấn đề phụ nữ được đề cập trên các báo rất phong phú và đa dạng : Từ việc đánh giá vai trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội ; địa vị của phụ nữ; giáo dục phụ nữ, nữ quyền và giải phóng phụ nữ đến phụ nữ  trong hôn nhân tự do, phụ nữ với thể dục thể thao, thời trang phụ nữ... Tuy nhiên trong khuôn khổ của một cuộc hội thảo khoa học, chúng tôi xin được giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình là  đánh giá vai trò và địa vị của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử trên báo chí bằng tiếng Việt xuất bản công khai  trong khoảng 30 năm đầu thế kỉ XX.
2. Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì vấn đề vai trò của phụ nữ Việt Nam được đề cập đến trong hầu hết các cuộc thảo luận liên quan đến  phụ nữ và các tác giả đều đánh giá cao vai trò của phụ nữ Việt Nam không chỉ trong gia đình mà cả trong nền sản xuất xã hội. Nhìn chung các tác giả đều nhấn mạnh vào sự đảm đang tần tảo của phụ nữ Việt Nam, nhất là trong công việc kinh doanh. Đặc biệt phụ nữ trong các gia đình mà người chồng theo đuổi nghiệp khoa cử thì mọi công việc trong nhà từ phụng dưỡng cha mẹ già cho đến nuôi dạy con cái đều do phụ nữ đảm nhiệm. Ngay như Phạm Quỳnh một trí thức Nho học nổi tiếng từng bị báo chí thời đó coi là thủ cựu khi ông ủng hộ chế độ quân chủ cũng đã phải ca ngợi phụ nữ Việt Nam “ linh lợi mà can đảm, cần mẫn mà khôn ngoan, xưa nay  đã có tiếng giỏi về đường kinh tế. Cuộc thương nghiệp trong nước phần nhiều là ở trong tay đàn bà . Dẫu cả thế giới không đâu có cái cảnh rất đáng kính, đáng phục là cảnh vợ nuôi chồng đi học, học suốt đời vì sự học ở nước ta không có thời hạn. Phụ nữ một mình tần tảo mà cung cấp được cho cả một nhà, trên cha mẹ, dưới lũ con’’ (NP. 10.1917 ). Đặc biệt các tác giả thời kì này còn đánh giá cao vai trò và ảnh hưởng của phụ nữ đối với nam giới cũng như công lao của phụ nữ đối với người chồng trong gia đình. Đó là vai trò cảm hoá, động viên của phụ nữ đối với nam giới. Thậm chí Nguyễn Bá Học còn khẳng định: đàn ông có làm nên được sự nghiệp thì 10 người có đến 7 , 8  người là nhờ công lao của vợ. Hiểu được vai trò và đóng góp của phụ nữ trong xã hội có tác giả đã tỏ ra thông cảm với những khó khăn vất vả của phụ nữ khi họ bị buộc phải gánh trách nhiệm chính trong nền sản xuất xã hội cũng như trong kinh tế gia đình như  ĐN trong bài Cái tai nạn nước lụt ở xứ Bắc kì năm 1926-1927 viết: “ Phàm việc lao động, việc trị sinh nhờ cả ở bọn hạ tiện với bọn đàn bà. Nhất là người đàn bà phải mang cái gánh cho xã hội rất nặng nề. Việc nông thương, cái gì nặng nhọc, đê hèn thì đến người đàn bà...’’ ( NP- 3.1927).
Báo chí thời kì này cũng phân tích nhiều về vai trò của phụ nữ trong việc giáo dục con cái. Nguyễn Bá Học cho rằng “ Đàn bà là chủ trong gia đình, đứng vào địa vị gia sư cho con trẻ’’. Hơn thế nữa, ông đã tuyệt đối hoá vai trò  và trách nhiệm giáo dục con cái trong gia đình của phụ nữ Việt Nam  khi cho rằng “ tính nết con hay, dở đều nằm trong tay người đàn bà’’ (NP- 4. 1920 ). Vì vậy mà “ bao nhiêu con nhà thất giáo hồ hết là con nhà không có mẹ’’.(NP- 10.1920)
Ông cũng cho rằng bản chất đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt nam mang tính phổ biến. Họ luôn dạy con phải sống trung thực, lễ phép và có hiếu với cha mẹ do đó “chưa hề thấy một người đàn bà dù ngu hèn thế nào mà dung cho con ăn gian nói dối, thứ cho con chửi chú đánh anh’’. Chính vì thế mà phụ nữ Việt Namđời nào cũng sản xuất ra những kẻ tuấn tài hào kiệt’’.
Mặc dù đánh giá rất cao vai trò của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và trong nền sản xuất xã hội, nhưng chỉ có Phan Bội Châu là người thấy được vai trò của phụ nữ Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc , còn phần lớn các bài viết trên báo chí thời kì này có thể do hạn chế của thời đại, hạn chế về giai cấp thường chỉ nhấn mạnh vị trí của phụ nữ ở trong gia đình mà không thấy hết được khả năng to lớn của phụ nữ trong việc cải biến xã hội cũng như trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nếu có chăng chỉ là khuyên chồng đóng góp công sức mở mang kinh tế nước nhà, dạy con biết trả thù nhà đền nợ nước  như trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục đầu thế kỉ XX. Phải đến năm 1930, khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời thì vai trò của phụ nữ trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam không những được  được đánh giá cao mà còn  được coi là một trong những nhân tố đảm bảo cho sự thành công của cách mạng Việt Nam . Nghị quyết của Hội nghị trung ương I của Đảng đã phân tích “ Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu . Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được’’.
3.Địa vị phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Đầu thế kỉ XX, vấn đề địa vị của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử cũng được thảo luận nhiều. Đặc biệt từ sau Đại chiến thế giới lần I,  khi mà các chính sách chính trị kinh tế văn hoá của Pháp đã đưa lại kết quả : văn hoá phương Tây ảnh hưởng ngày càng sâu sắc trong các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị và trí thức Tây học đã làm bùng lên cuộc thảo luận về vấn đề nữ quyên và giải phóng phụ nữ trên các báo  mà tiêu biểu là tờ Phụ nữ Tân văn - một tờ báo được xuất bản từ năm 1929- 1935.
Có thể thấy việc đánh giá địa vị của phụ nữ trong lịch sử  đã ảnh hưởng lớn tới việc nhận thức về vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trong thời kì này.
Có một số người do đánh giá cao những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội mà cho rằng “ đàn bà nước ta từ xưa vẫn được một địa vị xứng đáng trong xã hội ’’ công đức của phụ nữ không phải đàn ông xưa không biết, không cảm, không phục ’’ (NP-4. 1924). Phạm Ngọc Thiều trong một bài phát biểu ở Hội Trí Tri (NP-3.1925 ) sau khi phân tích phong tục và luật pháp Việt Nam, đặc biệt về quyền của phụ nữ trong hôn nhân và trong vấn đề sở hữu tài sản đã đi đến kết luận :  Phụ nữ Việt Nam có địa vị cao trong xã hội, đặc biệt là trong gia đình và so với một số nước ở châu A thì phụ nữ Việt Nam đã có nữ quyền rồi. Nguyễn Phan Long- chủ nhiệm báo Đuốc nhà Nam, một người theo chủ nghĩa quốc gia cải lương-  cho rằng phụ nữ không phải là nô lệ, phụ nữ nắm mọi quyền hành trong gia đình do đó phụ nữ không cần đòi nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Hay như Nguyên Văn Vĩnh- chủ bút báo Đông Dương tạp chíTrung Bắc chủ nhật- thì xưa nay phụ nữ Việt Nam vẫn được bình đẳng với nam giới nhất là trong việc tham gia vào nền sản xuất xã hội cũng như trong kinh tế gia đình, đôi khi trong gia đình “ phụ nữ cầm cả quyền đàn ông’’. Vì vậy nếu mà đòi nữ quyền( hiểu theo nghĩa chỉ là quyến được lao động như nam giới ) như châu Au là “ đòi ngược.’’
 Một số người khác thừa nhận địa vị bất bình đẳng của phụ nữ Việt Nam. Họ cho rằng, phụ nữ  tuy “ không đến nỗi bị bạc đãi  nhưng vẫn chỉ bị coi là vị thành niên, chung thân là vị thành niên’’ và  chủ yếu là chịu sự bất bình đẳng trong vấn đề giáo dục . Nguyên nhân của  sự bất bình đẳng đó chỉ đơn giản là do ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, quá “ câu nệ về mấy câu sáo ngữ sách Tầu’’ coi phụ nữ  như là vật phụ thuộc vào nam giới hoặc vì “ tin vào thuyết âm dương nên cho đàn bà là âm kém hẳn đàn ông là dương... mà nhu phải thuận cương, phải tam tòng nên không chú ý đến dạy dỗ’’.( NP- 10.1917 ). Do đó thực hiện giáo dục phụ nữ là biện pháp để thực hiện sự bình đẳng nam nữ. Cũng theo khuynh hướng này có người cho rằng phụ nữ muốn được bình đẳng trước hết phải được học tập.
Cũng có một số người như Phan Khôi hay Diệp Văn Kì cho rằng phụ nữ Việt nam đã phải chịu sự ràng buộc quá nặng nề của lễ giáo phong kiến  và sự ràng buộc đó đã làm phụ nữ chịu một địa vị bất bình đẳng, đặc biệt trong phụ nữ thuộc tầng lớp trên. Theo các ông điều này  đã gây nên nhiều nỗi bất hạnh cho phụ nữ và không còn phù hợp trong điều kiện một xã hội đang thay đổi trước ảnh hưởng của tiếp xúc văn hoá Đông -Tây và phụ nữ cần được giải phóng; “ giải phóng ở phong tục, giải phóng ở gia đình, giải phóng ở xã hội và hoàn toàn giải phóng’’.( PNTV- 1.8.1929 )
Như vậy khi đánh giá về địa vị của phụ nữ Việt Nam, nhìn chung các tác giả dù vô tình hay cố ý đều né tránh đề cập đến một điểm rất cơ bản là địa vị chính trị của phụ nữ Việt Nam , và không ai chỉ ra được rằng phụ nữ muốn giải phóng, muốn đòi nữ quyền  hay bình đẳng nam nữ trước hết cần  có một tiền đề tiên quyêt là nước nhà độc lập. Đến cuối năm 1934 đầu năm 1935, do ảnh hưởng của Đảng cộng sản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo, trên báo Phụ nữ Tân văn bắt đầu xuất hiện những bài vạch rõ những thiếu sót, sự phiến diện  trong việc đánh giá địa vị của phụ nữ cũng như nhận thức về nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Đồng thời  những bài báo này còn chỉ ra được mối quan hệ giữa phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ, thực chất của vấn đề phụ nữ trong chế độ thuộc địa. Đó là điều kiện sống, điều kiện làm việc, chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm, vấn đề nhân phẩm... của phần lớn phụ nữ đang làm việc trong guồng máy kinh tế của chủ nghĩa tư bản Pháp.

 4.Kết luận
1. Những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong gia đình là một thực tế khác quan không thể phủ nhận. Điều này đã khẳng định vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử. Tuy nhiên, do ảnh hưởng lâu dài của tư tưởng Nho giáo, phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu một địa vị xã hội không xứng đáng với những đóng góp của họ. Chính mâu thuẫn này đã làm cho phụ nữ luôn trở thành một vấn đề xã hội, đặc biệt trong những năm đầu thế kỉ XX, dưới tác động của các chương trình khai thác thuộc địa của Pháp cũng như tiếp xúc văn hoá Đông- Tây.
2. Từ rất sớm báo chí đã đề cập đến vấn đề phụ nữ . Cùng với sự phát triển của báo chí, mối liên hệ, cũng như ý thức cộng đồng phát triển. Báo chí làm cho phụ nữ Việt Nam xích lại gần nhau hơn  trong một mối quan tâm chung về vai trò và vị trí của họ trong xã hội, đồng thời phản ánh nhận thức của của xã hội đối với phụ nữ  cũng như của bản thân phụ nữ Việt Nam về vai trò và địa vị của chính họ trong xã hội.
3. Tuy nhiên báo chí công khai ở Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỉ XX chủ yếu là báo chí tư nhân hoặc báo chí của chính quyền thực dân. Các tác giả phần lớn xuất thân từ tầng lớp trên, là những trí thức phong kiến hoặc những trí thức Tây học nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, do đó những đánh giá của họ về vai trò và địa vị phụ nữ Việt Nam còn nhiều hạn chế. Họ tuy phải thừa nhận những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử nhưng lại nhấn mạnh vị trí của phụ nữ ở trong gia đình mà chưa thấy được khả năng to lớn của phụ nữ trong xã hội cũng như chưa thực sự đi vào  thực chất của vấn đề phụ nữ trong  một xã hội thuộc địa. Phải đến năm 1930, khi Đảng cộng sản Việt Nam đời phụ nữ Việt Nam mới được đánh giá đúng và dưới sự lãnh đạo của Đảng phụ nữ đã trở thành một lực lượng cách mạng quan trọng đảm bảo cho sự thành công của cách mạng. Và có thể nói thành công của Cách mạng tháng Tam 1945 đã thực sự mang lại địa vị bình đẳng cho  phụ nữ Việt Nam cũng như những cơ hội cho phụ nữ Việt Nam thực hiện quyền bình đẳng của mình.



Tài liệu tham khảo.

1. Đăng cổ tùng báo . 1907
2.Đông Dương tạp chí . 1913-1917
3.Nữ giới chung .1918
4.Nam Phong. 1917-1935 ( NP )
5. An Nam tạp chí
6. Phụ nữ Tân văn . 1929-1935 (PNTV )
 7 ThanhNghị
8. Hà thành ngọ báo
9.  Bác Hồ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ. H.1992
10. Phan Bội Châu. Vấn đề phụ nữ.Phụ nữ tùng san. Huế 1929
11. Vu Gia . Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học. Văn hoá 95
12.Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam.T.1.Phụ Nữ.1961
13. Lê thị Nhâm Tuyết. Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại. KHXH.1973
14. Trần Quốc Vượng. Truyền thống phụ nữ Việt Nam. Phụ nữ. 1972
 * Bài đã đăng trong Kỷ yếu HT khoa học 

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

Văn hóa và không gian: Tiếp cận nhân học



                                                               Waltraud Kokot
(Paper presented at the Swiss Graduate Programme in Ethnology/Anthropology)

Đặng Thị Vân Chi dịch


         Trong số các khái niệm quan trọng trong nhân học, khái niệm "không gian" giữ một vị trí nổi bật. Thoạt nhìn, quan hệ giữa "văn hóa" và "không gian" có vẻ như khá rõ ràng:  những quan hệ không gian là một biến số chính ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi  của con người, trong khi chiến lược về phương pháp chủ yếu trong nhân học liên quan chặt chẽ tới những ranh giới về không gian của “lĩnh vực hoạt động".
         Tuy nhiên, trong thập niên trước mối  quan hệ giữa nhân  học và  "không gian" đã ngày càng trở nên khó chịu. Bắt đầu với một sự phê phán về khái niệm giới hạn không gian của văn hóa và lĩnh vực hoạt động, khái niệm không gian cũng đã đươc thảo luận.
         Kết quả có được từ cuộc tranh luận này, chúng ta còn lại một tập hợp rời rạc các cụm từ và những  câu ẩn dụ đề cập đến các khía cạnh không gian của chủ đề nhân  học, trải khắp từ "mục tiêu hoạt động" và "đặc tính  toàn cầu" (Appadurai 1991) đến " không gian xã hội xuyên quốc gia","  không gian của cộng đồng Hải ngoại/Do thái "(Brah 1996) hay" địa điểm văn hóa "(Olwig /Hastrup 1997). Vì không phải hiếm gặp với phép ẩn dụ, giá trị của chúng có tính gợi ý nhiều hơn là sự phân tích. Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể (xem Hauser-Schäublin /Dickhardt 2003), vẫn không có một   lý thuyết nhân hoc về " không gian văn hòa " được trình bày một cách đầy đủ. Đối với định hướng lý thuyết, nhà nhân học đề cập đến sự phát triển về mặt địa lý, các nghiên cứu đô thị, xã hội học.
         Mục đích của bài báo này hướng tới  hai phầnPhần đầu tiên để giới thiệu một tổng quan ngắn về  mối quan hệ  đang thay đổi của nhân học đối với "không gian", tôi đã tiến hành mở rộng kết quả nghiên cứu của  Schoenfelder (2000) và Tomforde (2006), cả hai cung cấp các đánh giá về sự nổi lên của nhân học không gian. Ngoài ra,phần tổng quan này còn dựa trên các cuộc thảo luận  về không gian và văn hóa của Hauser-Schäublin và Dickhardt (2003). Trong phần thứ hai, tôi sẽ bàn đến một số vấn đề liên quan về khái niệm của "văn hóa" và "Không gian" trong các nghiên cứu gần đây trên các mạng cộng đồng người di cư và xuyên quốc gia.         Để minh họa nhiều chủ đề có thể có trong nghiên cứu nhân  học văn hóa và không gian, hai ví dụ từ nghiên cứu thực địa gần đây có thể được coi  một sự  giới thiệu.

Trước hết: hai ví dụ dân tộc học

         Giống như ở các thành phố cảng khác, các bộ phận của khu vực cảng cũ trong thành phố Dublin đã được chuyển đổi thành các căn hộ tư nhân – cho thuê đắt tiền, Chúng hình thành các cộng đồng biệt thự đóng kín bắt đầu chống lại các khu phố của giai cấp công nhân cũ, những người vẫn còn  sinh sống  tại khu cảng cũ và được xem là " tầng lớp thấp kém đầy nguy hiểm ". Trong một số đường phố,  căn hộ cao cấp đóng kín và cộng đồng thuê nhà ở thực sự đứng bên cạnh nhau. Trong khu vực của công nhân cảng cũ 'của Dublin, trình dộ tổ chức xã hội của họ  cao một cách  đáng ngạc nhiên.

         Hiệp hội những người láng giềng, nghiệp đoàn lao động, hiệp hội giúp việc nhà thờ tự nguyện và không phải là ít quán rượu địa phương phục vụ như các nút trong một mạng lưới dày đặc các mối quan hệ giữa các địa phương trong số các khu cư dân. "cũ"
         Trong căn hộ biệt thự "mới", hầu như không có bất kỳ liên hệ cá nhân nào cả. Các cư dân thường trẻ, độc thân, và làm việc nhiều giờ trong quận kinh doanh ở nội thành. Nhưng có một cấu trúc khu vực đang nổi lên trong số đó sau tất cả đang diễn ra trong không gian ảo của internet. Dân cư của cộng đồng nhà khép kín đã thành lập một số -phòng chat, trong đó họ giao tiếp, trao đổi tin đồn và tin tức về khu phố của họ - thường tất cả không bao giờ  trực tiếp gặp nhau (mặt đối mặt) .(1)

          Khu trung tâm kinh doanh và mua sắm của Hamburg được ghi nhận là nhiều cửa hàng sang trọng và trung tâm mua sắm đắt tiền. Trong khu vực cho người đi bộ này, các bộ phận của không gian đô thị đang ngày càng được tư nhân hóa bởi sự sát nhập vào trung tâm mua sắm. Gần nhà ga xe lửa chính, khu vực này cũng là điểmtới thăm với một số lượng ngày càng tăng của người vô gia cư đến với Hamburg từ các khu vực khác của Đức. Số người vô gia cư ở Hamburg được ước tính vượt quá ba ngàn, và ít nhất một trăm trong số họ sống trực tiếp, hoặc ngay trong vùng lân cận, khu vực trung tâm thương mại. Thông thường, họ thường  chiếm không gian đô thị như là một nơi để sống, ăn uống, xã hội hóa và kiếm sống bằng cách ăn xin, bán tạp chí đường phố dẫn đến xung đột với lợi ích của doanh nghiệp và chính quyền thành phố.
         Theo một nghiên cứu dân tộc học về văn hóa hàng ngày giữa những người đàn ông vô gia cư ở nội thành của Hamburg đã thể hiện, trở thành người vô gia cư là nhiều hơn chỉ mất một nơi để sinh sống. Văn hóa vô gia cư bao gồm một tập hợp phức tạp của kiến thức, quy định xã hội và chiến lược cho các tài liệu và khảo sát cuộc sống tình cảm, những điều đã được học cách rõ ràng trong một thời gian khá ngắn.
          Thông thường, đây là kiến thức văn hóa được dạy cho người mới dưới hình thức một mối quan hệ thầy-học viên, nơi mà "người cũ" có kinh nghiệm dạy chiến lược của mình cho một người mới trên đường phố. Như một Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra (Kokot 2004), một phần quan trọng về kiến thức văn hóa này là  về không gian. Không gian đô thị đang được phân loại thành những nơi an toàn và không an toàn để ngủ, các nguồn thực phẩm và những nơi tốt cho việc xoay xở hoặc xin ăn. Vì những người vô gia cư nam giới  ở nội thành của Hamburg được tổ chức trong các nhóm lỏng lẻo, những người mới nhập cư rõ ràng phải tìm hiểu các quy định chặt chẽ liên quan đến việc phân phối các vùng lãnh thổ, cũng như quy định về quyền sở hữu và bảo vệ những nơi tốt để ngủ hay đ xin ăn. Như một vấn đề của thực tế, người vô gia cư đô thị được sở hữu một loại kiến thức chuyên môn độc đáo về không gian đô thị, hoàn toàn khác với dòng chính. Gần đây, kiến thức văn hóa cụ thể này đã được sử dụng để phát triển một thành phố đi bộ có hướng dẫn được cung cấp bởi người vô gia cư cho người dân với khách du lịch và khán giả khác quan tâm. Hình thức "dịch thuật văn hóa" này đã trở thành một thành công  chung.(Kokot 2004).

Nhân học và "không gian" cho tới thập niên tám mươi

        Không cần phải nói rằng "lĩnh vực này" không còn là vị trí không gian xác định mà các nhà nhân học nhập vào một cách ngây thơtừ bỏ hoặc quay trở lại (Lovell năm 1998, Olwig / Hastrup năm 1997, Olwig 2004), Vì khái niệm về giới hạn không gian "văn hóa" bắt nguồn từ một lãnh thổ riêng biệt đã được phá bỏ triệt để. Khái niệm "vùng văn hóa" đã được bỏ đi cùng với nền tảng chủ nghĩa lãng mạn Đức thế kỷ thứ mười chín của chúng .Tuy nhiên, điều này đã không dẫn đến việc gạt bỏ hẳn"không gian" ra khỏi nghiên cứu nhân học. Thực tế là ngược lại.
         Kể từ thập niên tám mươi -, đã có một số lượng gần như lạm phát các xuất bản phẩm phản đối ý nghĩa của "không gian" trong nhân học. Đại thể, các lập luận rơi vào hai loại. Trong cuộc tranh luận về "toàn cầu hóa", trên toàn thế giới các mạng lưới và các cuộc di dân mới được xem là yếu tố làm giảm các mối liên kết địa phương của các nền văn hóa và  dân số nhân loại. Nói cách khác, "văn hóa" được xem là " giải nội địa hóa" hoặc "giải lãnh thổ hóa". Trong cuộc tranh luận về tính chất phản thân và chủ nghĩa cấu trúccác lập luận thậm chí đã đi xa hơn nữa. Trong khi việc nghiên cứu toàn cầu hóa được tập trung vào giải thể các mối liên kết được thiết lập giữa ,không gian, văn hoá và xã hội, các lập luận hậu hiện đại đã nghi ngờ về sự tồn tại của những danh mục này.

           Sau Gupta  Ferguson (1997), quan niệm về lĩnh vực tự  nó bị loại bỏ như là một công cụ của  những cái khác thực dân. Tuy nhiên, có sự  tiếp tục nghiên cứu thực nghiệm, cố gắng thống nhất lại các khái niệm về không gian  văn hóa. Tôi sẽ trở lại điều này vào cuối bài  tổng quan của tôi. Trước tiên, tôi  sẽ phác hoạ ngắn gọn  những diễn biến cho đến thập niên tám mươi

Phát triển cho đến -thập niên tám mươi.

           Cho đến khi bắt đầu "nghiên cứu toàn cầu hóa"  phê bình hậu hiện đại"Không gian" đã ít nhiều được xem hiển nhiên như là một yếu tố không đổi chủ quản, hoặc thậm chí đang được xác định, tập hợp của các hành động, niềm tin và các nhà nhân học cấu trúc đã gọi là "văn hóa". Cho đến  thập niên tám mươi, "không gian" không phải là một vấn đề của  cuộc tranh luận lý thuyết, nhưng ít nhiều đã trở thành hoàn toàn tương đương với các môi trường vật chất nói chung. Do đó, như một phần của "tự  nhiên", "không gian" đã được đặt vào "Văn hóa".

          Ít nhiều những  cố gắng có tính quyết định để liên kết sự biến đổi văn hóa với "môi trường" có thể được truy nguồn trở lại thời cổ. Trong thế kỷ thứ mười tám  mười chín các mô hình như vậy một lần nữa đã trở thành phổ biến , thiết lập nền tảng cho các lý thuyết về " tính cách  dân tộc .Trong nghiên cứu tiến hoá tư tưởng."không gian ",  núp dưới hình thứclà "môi trường vật chất, được xem  một yếu tố chính  xác định sự khác biệt về trình độ phát triển văn hóa.

        Trong những năm đầu thế kỷ XX, một cách tiếp cận khác hơn đến trướcMôi trường vật lý đã không còn được coi như  văn hóa nhân loại đã được định rõ, mà là một số hình thức chắc chắn được cho phép của các chiến lược kinh tế và tổ chức xã hội.         Kể từ  thập niên 50, nhiều loại  phương pháp tiếp cận hệ sinh thái văn hóa khác nhau đã cung cấp một khuôn khổ có tính hệ thống cho việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hoá và môi trường.  Phát triển Văn hóa và thay đổi văn hoá hiện nayđược xem như là kết quả từ một quá trình thích ứng của các hệ thống xã hội đối với môi trường tự nhiên.
         Mặc dù học thuyết khái niệm đơn giản về sự "thích ứng", "t nhiên" và "môi trường" đã được tranh luận cũng từ bên trong hệ sinh thái văn hóa, ý nghĩa của "không gian" như một phần của "môi trường" vẫn không bị tranh cãi cho đến sau này.
        Quan niệm về một sự thống nhất của văn hóa, không gian và xã hội cũng có thể được truy nguyên tới khái niệm về "vùng văn hóa" (Kulturkreislehre), được thống trị bởi nhân học Đức vào đầu thế kỷ XX. Ý tưởng về một bức tranh riêng biệt, nhiều hay ít văn hóa được giới hạn tính không gian, đặc trưng bởi ưu thế của những đặc điểm văn hóa nhất định (chủ yếu là văn hóa vật thể), cuối cùng dẫn tới sự phát triển của các nguyên tắc phân chia vùng trong nhân học.

         Căn cứ vào phê phán của Fardon(1990)  về  "những chiến lược địa phương hóa",  tài liệu hiện hành về  văn học hiện nay về nhân học  không gian gần như cùng thỏa thuận tiếp tục tranh luận chống lại sự đồng nhất bản chất của các khu vực không gian xã hội  đặc biệt  với những đặc điểm   hoặc các chủ  đề  văn hóa

          Theo Appadurai (1991), không gian  dựa trên khái niệm về nhân  học có thểthực sự trở thành "nhà tù" cho nhân học khu vực: Như ông nóikhông thể nghiên cứu nhiều  hơn về Ấn Độ mà không cần tham chiếu về  đẳng cấpkhông thể  nghiên cứu  nhiều hơn về châu Phi mà không cần tham chiếu vể quan hệ huyết thống,  không thể nghiên cứu nhiều hơn về Melanesia mà không tham khảo  các hệ thống phức tạp của giao lưu kinh tế.




Tiếp cận giải cấu trúc

         Tự phê bình có tính phản xạ về các khái niệm của riêng  nhân  học không phải là  phát minh của thời hiện tại. Quá trình giải thực dân, đô thị hóa và sự xuất hiện củacác quốc gia dân tộc mới đã dẫn đến việc thẩm định lại chủ yếu về cách tiếp cận lý thuyết và thực hành nghiên cứu thực địa ngay từ năm I950. Tuy nhiên trong thập niên tám mươi, việc đánh giá văn hóa – bằng lĩnh vực làm việc - cũng như xây dựng và tái sinh " văn hóa văn bản " di chuyển vào trung tâm của cuộc tranh luận. Phía đối tượngcủa lĩnh vực công việc đã được đưa vào trung tâm cũng như các mối quan hệ quyền lực của các nhà điều tra và họ "sở hữu đối tượng". Dân tộc học đã bị chỉ trích là  tưởng tượng của thực dân vào một vật thể "khác". Do đó, các kích thước không gian của "lĩnh vực" cũng được đưa vào câu hỏi.
         Năm 1997, ít nhất là ba ấn phẩm có ảnh hưởng đánh dấu sự khởi đầu của cuộc thảo luận về các lĩnh vực như vị trí và địa điểm của nghiên cứu nhân học: "Văn hoá,quyền lực và nơi chốn: Những khám phá trong Nhân học quan trọng "và" Địa điểm nhân chủng học " (Biên tập bởi Akhil Gupta và James Ferguson) và "Nơi gắn văn hoá: Những thay đổi về đối tượng của nhân học "(chỉnh sửa bởi Karen Olwig và Kirsten Hastrup). Các nguyên lý cơ bản của những đóng góp này có thể được tóm tắt như sau: chúng ta không thể  giả định bất kỳ mối quan hệ sơ khai hay “ nhất định” nào giữa xã hội loài người, nền văn hóa và  không gian sinh sống của con người , và sự khác biệt văn hóa không phải địa phương  hoá (Schoenfelder 2000: 28).
          Những luận điểm này có hậu quả lâu dài không chỉ trên lý thuyết, mà còn trên một mức độ phương pháp luận. Nghiên cứu thực địa cũng không còn tự giới hạn trong phạm vi ứng dụng thủ tục tiêu chuẩn như quan sát tham dự hoặc các cuộc phỏng vấn trong phạm vi của một địa phương nhất định. Mặt khác, nếu các nhà nhân học đã thực hiện một cách nghiêm túc các đòi hỏi của họ để hiểu và đưa ra tiếng nói đáng tin và thực tiễn của cá nhân người làm trên một cấp độ địa phương, không có gì để thay thế cho nghiên cứu thực địa như là một phương pháp điều tra thực nghiệm. Tình trạng khó xử này sẽ dẫn tới tập trung mạnh hơn sau khi giới thiệu khái niệm "toàn cầu hóa".


Nghiên cứu Toàn cầu hóa

        Dựa trên nghiên cứu của mình trong số những người di cư và người tị nạn, Liisa Malkki (1997) chỉ trích mạnh mẽ khái niệm ẩn dụ về  "nguồn gốc", nghiên cứu nhân học chính trị về văn hóa và không gian cũng như diễn ngôn bình dân. Ý tưởng về một xã hội hay văn hóa "Bắt nguồn từ" trong một lãnh thổ nhất định”, cô lập luận, đưa ra cách để hình dung những người di cư và tỵ nạn như những phần tử "bật gốc", hoặc "mất gốc" đe dọa dân số tự nhiên trong môi trường sống của họ. Khái niệm về người di cư, người tị nạn là nguy hiểm "Vaterlandslose Gesellen" nhắc lại ở đây.  Phê bình của Malkki đại diện cho cả những người theo quan điểm giải cấu trúc (liên quan với việc cấp lại các  khái niệm trong nhân  học), cũng như  hệ quả về mặt lý thuyết đối với người di cư và sống  lưu vong trên một cấp độ toàn cầu.
        Trong phạm vi nhân học, "toàn cầu hóa" là sự liên kết ngày càng tăng và phụ thuộc lẫn nhau của các địa điểm và người dân, dựa trên các loại hình khác nhau của quá trình và quan hệ xuyên địa phương. Đối với Hannerz" toàn cầu hóa  là người không chuyên làm  tăng độ dài của khoảng cách liên hệ lẫn nhau, ít nhất là xuyên qua các biên giới quốc gia, cũng như là tốt hơn giữa các lục địa "(ibid 1996: 17).
        Việc nổi lên phổ biến của khái niệm này không phục vụ để  tăng  độ sắc nét về mặt phân tích của nó. Trong khi đó, thuật ngữ này được sử dụng nhiều hơn để tham khảo các thị trường tài chính cũng như du lịch quốc tế, khối lượng tiêu thụ, khối lượng di dân, thông tin liên lạc mô hình và chiến tranh hiện đại, đó chỉ là một vài ví dụ. Trong nhân  học, các trung tâm tập trung vẫn còn trên các mạng trên toàn thế giới và vai trò của chúng như một phương tiện cho quá trình văn hóa, thiết lập kết nối giữa các địa phương và toàn cầu. Trong bối cảnh này, quá trình của "giải lãnh thổ hóa" đã được đánh dấu là gần như không thể tránh khỏi hậu quả của toàn cầu hóa (1995 Kearney, Massey 1996). Thông thường, thuật ngữ này đề cập đến khái niệm khá mơ hồ về nới lỏng quan hệ với một môi trường địa phương, cũng như với sự liên kết ngày càng tăng của các địa phương đối với thế giới, trong đó, mặt khác, được xem là cấu thành một chức năng chính của "toàn cầu hóa" của chính nó. Trong một cách ẩn dụmơ hồ , "giải lãnh thổ hóa" đề cập đến việc giải thể biên giới, ranh giới và "lĩnh vực” có tính nhân học. Theo Gupta và Ferguson(1997: 4)  các nền văn hóa "... không còn cố định ở  một nơi nhất định".

         Một lần nữa, điều tra thực nghiệm cung cấp một hình ảnh khác biệt hơn nhiều.Trong khi đó (không phải ít nhất là do sự nổi lên toàn cầu lại của phong trào dân tộc),ý nghĩa về các địa phương đã được tái phát hiện trong cuộc tranh luận nhân học. Hannerz (1996), như nhiều người khác, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tương tác hàng ngày và quan hệ trực diện với sản xuất và tái sản xuất  "văn hóa". Do đó, nóở  cấp độ địa phương mà ảnh hưởng toàn cầù bộc lộ, chuyển đổi và kết hợp vào niềm tin và thực hành. Với Hannerz, các cấp địa phương là đấu trường ", trong đó một loạt các ảnh hưởng kết hợp với nhau, diễn ra có lẽ trong một sự kết hợp độc đáo, dưới những điều kiện đặc biệt "(ibid1996: 27).
        Trong mô hình của ông về "dòng chảy văn hoá toàn cầu", Appadurai (1991) đã cố gắng sắp xếp các quá trình trên toàn cầu khác nhau vào năm loại, mà ông gọi là kỹ thuật, tài chính, phương tiện truyền thông, IDEO và đặc tính cảnh quan. Trong những "cảnh quan", mà mở rộng vượt xa ranh giới khu vực và quốc gia, ông xác định các loại diễn viên khác nhau, những người, như các nút trong một mạng, tập trung các dòng chảy toàn cầu đi qua các mối quan hệ bởi thực tế văn hóa của họ.  "Cảnh quan" của Appadurai được nối liền với nhau, nhưng cũng có ranh giới và phân mảnh giữa chúng. Một ví dụ: bằng cách bán hàng hoá của họ cho khách du lịch từ Bắc Âu, người tị nạn Afghanistan làm việc như thương nhân nhỏ trên      Đường phố Thessaloniki tạo thành một nút trong một bối cảnh dân tộc toàn cầu.

        Bằng cách trao đổi tin tức và thông điệp cá nhân trên video với gia đình của họ ở Afghanistan và  trong những người di cư, họ dự phần trong một bối cảnh truyền thông xuyên quốc gia. Tuy nhiên, hầu hết trong số họ, dường như sống hoàn toàn bị ngắt kết nối từ dòng chảy vốn lớn tạo thành bối cảnh tài chính toàn cầu (Stroux 2006). Trong mô hình của Appadurai, các cấp độ địa phương không chỉ là một vị trí mà quá trình toàn cầu được phản ánh hoặc có tác dụng. Ngược lại: chỉ bằng cách tương tác trực tiếp và thực hành của các diễn viên địa phương là sự liên kết toàn cầu đang được  tạo ra thực sự.
         Những nghiên cứu về thuyết khái niệm và việc chiếm hữu không gian của các diễn viên địa phương hiện nay thậm chí xa hơn sự hỗ trợ về kinh nghiệm cho ý nghĩa lâu dài về không gian và địa phương. Trong nhân học đô thị, nó trở thành  thủ tục tiêu chuẩn để khảo sát bản đồ tâm thần và các đại diện tượng trưng khác của môi trường không gian, và bản đồ thực hành hàng ngày trong sự  liên quan với không gian đô thị. Có lẽ vì điều tra như vậy thì truyền thống hơn quan hệ chặt chẽ hơn với địa lý hoặc quy hoạch đô thị, chúng dường như đã khá được chú ý trong các cuộc tranh luận lý thuyết gần đây về sự biến mất nghĩa vụ của các địa phương.

         Những khi nghiên cứu thực địa gần đây như Tomforde (2006) cho thấy, thuyết khái niệm về không gian có thể  đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành mạng lưới toàn cầu hải ngoại. Trong số các cộng đồng người Hmong ở Thái Lan và các nơi khác, một mô hình tinh thần không gian được xác định của "người Hmong miền núi" phục vụ như là một trung tâm nhận dạng bản sắc của người Hmông. Khái niệm là "người miền núi" chi phối quan hệ của người Hmong với các nhóm dân tộc khác cũng như vũ trụ và trật tự xã hội của họ . Trong mô hình tâm thần này, những ngọn núi vừa  là một thực thể địa lý vưà là một mô hình tượng trưng của bản sắc - những ngọn núi là nơi của người Hmong.

        Hợp nhất văn hóa và không gian - vấn đề của lý thuyết và nghiên cứu thực hành 


       Trong phần thứ hai của bài viết này, tôi sẽ từ bỏ thứ tự thời gian để thảo luận về một số  các vấn đề hệ thống có  liên quan đến "văn hóa" và "không gian", như họ thể hiện chúng trong các nghiên cứu thực nghiệm của người di cư và cộng đồng xuyên quốc gia.
         Những lập luận sau đây giả định một cách tiếp cận lý thuyết tập trung vào diễn viên với một trọng tâm khác biệt về thực hành văn hóa, theo đề nghị của Bourdieu (1976) và những người khác.
         Trong mô hình này, các đơn vị khảo sát xác định rõ ràng không phải là các nhóm không gian bị giới hạn: thay vào đó, các nhà nghiên cứu tập trung vào bất kỳ loại "thực hành" mà truyền được văn hóa (nghĩa là được học hoặc giảng dạy cho các cá nhân khác là thành viên thuộc một thể loại xã hội phổ biến).
Trong khái niệm này, "không gian" đi vào hình ảnh trên nhiều cấp độ khác nhau. Để bắt đầu, cách tiếp cận này vượt qua các giới hạn của các đơn vị không gian giới hạn
của nghiên cứu.
          Như nhân học đô thị, nghiên cứu di cư  cộng đồng người,  nghiên cứu đã cho thấykiến thức văn hóa, và thực hành văn hóa có thể được truyền đạt giữa các mạng xã hội lan truyền rộng rãi vượt  qua ranh giới không gian.
          Như ví dụ Dublin trích dẫn trong các chương giới thiệu, các mạng xã hội chia sẻ tri thức văn hóa hoặc tạo ra các thực hành văn hóa không nhất thiết phải tồn tại trong không gian vật lý nào cả. Trong khối lượng của họ "Kulturelle Räume - räumliche Kultur" (2003) Hauser-Schäublin và Dickhardt đề xuất một lý thuyết về "không gian văn hoá".  Trong bài này, tôi sẽ không đề cập đến lý thuyết này chi tiết hơn. Nó đủ để lưu ý rằng trong bối cảnh lý thuyết, "không gian" không được coi là một thực thể trừu tượng hoặc một  công ten nơ chỉ "Chứa" các hành động của con người. Thay vào đó, "không gian" được xem như một học thuyết khái niệm hoặc mô hình văn hóa, và  vừa là một phương tiện vưà là một sản phẩm của thực tiễn xã hội.
           Do đó, nhân loại học nghiên cứu về văn hóa và không gian yêu cầu ý nghĩa ẩn dụ của không gian đại diện cho quan hệ xã hội và vũ trụ học và bản sắc là ví dụ điển hình bởi nghiên cứu  của Tomforde về cộng đồng người Hmong. Điều tra sự cùng tồn tại- Và đôi khi đụng độ - các mô hình văn hóa khác nhau và  quan hệ quyền lực chiphối việc phân bổ không gian như trong ví dụ của các đô thị người vô gia cư
         Điền dã dân tộc học là một chức năng trung tâm của nghiên cứu nhân  học. Chỉ bằng quan sát và phân tích chặt chẽ các cá nhân diễn viên, sự chuyển đổi của quá trình toàn cầu đối với thực tiễn địa phương có thể được điều tra bằng thực nghiệm. Bên cạnh đó hệ thống so sánh, việc quan sát đặc biệt bên trong ở cấp độ vi mô vẫn còn khác biệt về cách tiếp cận nhân học. Tuy nhiên, khái niệm giải cấu trúc của "lĩnh vực" nhân học không thể giữ lại mà không có hậu quả thực tế. Nếu nghiên cứu các trang web không còn không gian xác định, một khái niệm quan hệ của "lĩnh vực mạng" để thay thế cho "lĩnh vực địa phương". Do đó, "trong lĩnh vực này" có nghĩa là một phần của một trang web chuyển đổi các mối quan hệ và, nếu cần thiết, theo các quan hệ với bất cứ nơi nào họ có thể mở rộng. Trong trường hợp nghiên cứu cộng đồng Do Thái  Ví dụ, nhiều tên gọi cho "dân tộc học đa vị trí với nhau" có thể mất kích thước toàn cầu.
        Trong những thập niên qua, "Do Thái" đã trở thành một chủ đề chính của nghiên cứu dân tộc học (Kokot, Tölölyan, Alfonso năm 2004). Cho đến gần đây,phần lớn các nghiên cứu dân tộc học đã tập trung vào câu hỏi về sự hình thành  bản sắc chính trị  trong cộng đồng Do Thái. Nhưng trong khi xây dựng bản sắc Do Thái và cơ quan của giới thượng lưu và các tổ chức chính trị ,vẫn duy trì những khía cạnh quan trọng của các tổ chức  hội Do Thái, họ không phải là những người duy nhất. Các nhóm Do Thái khác nhau về kinh nghiệm lịch sử của họ càng nhiều càng tốt trong cơ cấu cộng đồng của họ,  họ có thể rất khác nhau đượcgán vào trong hệ thống tổng thể về sự khác nhau của các xã hội "chủ nhà".
         Trong lịch sử cũng như trong  những thay đổi kinh tế - xã hội thời gian gần đây, cộng đồng Do Thái chắc chắn xuất hiện nổi bật một cách đặc biệt, đóng vai trò về kinh tế và / hoặc văn hóa tiên tiến (avant-gardes) nhờ định hướng xuyên quốc gia hay toàn cầu của họ. Một số thành phố, đáng chú ý là nhiều thành phố cảnglớn, đã trở thành trung tâm của người Do Thái (Ceasarani năm 2002, Cesarani / Romain 2005, Mazower2005). Mặc dù ngày nay các mối quan hệ của các thành phố  cảng đã thay đổi đáng kể, nhiều  trung tâm lịch sử của người Do Thái  cũng vẫn thu hút sự hình thành cộng đồng Do Thái mới.

        Các cảng của Hy Lạp Thessaloniki là một nguyên mẫu của một "thành phố Do Thái "  trong lịch sử. Cho đến khi chiến tranh thế giới II bắt đầu, nó là trung tâm chính của các Sephardic Judaismin Đông Địa Trung Hải. Trong thời đại của đế quốc Ottoman, như nghiên cứu của Mazower (2005) và những học giả khác cho thấy, cơ cấu xã hội của Thessaloniki là một mạng lưới buôn bán dày đặc của người Do Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, người Armenia, châu Âu, Slaws, Gypsies và Các dân tộc vùng  Balkan, tất cả kết nối với nhau và liên kết thành phố với các loại dòng chảy xuyên quốc gia
          Mặc dù chỉ có rất ít dấu vết vật chất để lại, các không gian đô thị của Thessaloniki rõ ràng đã được hình thành bởi lịch sử người Do Thái này.        Tính năng liên quan có thể được nhìn thấy tại các thành phố Balkan khác cũng như: ngay cả quan hệ hiện đại, thế kỷ 19 cạnh Sofia của Bungari cho thấy nhà thờ trung ương Hồi giáo, các giáo đường Do Thái lớn, một phòng thị trường được điều hành bởi cộng đồng Do thái và nhà thờ Chính thống giáotất cả các tổ chức Thiên chúa giáo nằm quanh quảng trường ở trung tâm thành phố.
          Trong nghiên cứu người di cư đô thị, nhân học đang đối mặt với một tình thế khó xử. Một mặt, người điền dã phải đối mặt với các đơn vị nghiên cứu đến nay mở rộng các giới hạn địa giới quan sát không gian. Mặt khác, có trực giác rõ ràng quan hệ của Do Thái và (một số loại) tính đô thị hay không gian đô thị, trong đó cần khảo sát có hệ thống
          Với mục đích này, hai khái niệm làm việc có thể hữu ích trong việc phân tích các mối quan hệ này. (1991) Khái niệm của Appadurai "bối cảnh dân tộc toàn cầu" có thể được sử dụng nhiều hơn hoặc ít hơn đồng nghĩa với khái niệm của Avtar Brah gợiý "không gian cộng đồng Do Thái(?)" (Brah 1996). Cả hai khái niệm chia sẻ những giả định cơ bản rằng, mặc dù có vẻ như mạng lưới không bị chặn và quan hệ tương táclên người di cư, có một số các nút tập trung trong đó các loại khác nhau của các mạng (hay "dòng chảy văn hóa "trong thuật ngữ của Appadurai) để kết nối. Đó là tại các nút nơi thực hành xuyên quốc gia đang được tạo ra bởi các diễn viên cá nhân, và ít nhất một số họ có thể được đặt trong không gian đô thị. Thành phố người di cư sau đó, có thể được coi như cung cấp một trang web dày đặc của các mạng con người hoặc với một tỷ lệ đáng kể như các nút. cao
         Một khái niệm khác rất hứa hẹn là khái niệm của  Olwig và (1997) Hastrup về "văn hóa các trang web ". Mặc dù dường như có sự biến mất của các tham chiếu không gian, họ cho rằng địa điểm tiêu biểu nhất định như đền thờ hoặc nhà gia đình đóng một vai trò trung tâm trong việc duy trì cơ cấu xã hội, phục vụ cả khung vật chất  và  như một biểu tượng đầu mối  cho thuyết khái niệm về bản sắc chung. Tại các thành phố Do Thái, chúng ta có thể mong đợi một loạt các vị trí như vậy, phục vụ như là điểm định hướng và biểu tượng xã hội và chia sẻ vật chất  cho việc định hình không gian đô thị. "Văn hóa nơi chốn " có thể phục vụ như là điểm khởi đầu từ đó để tiếp theo thực hiện theo các mối tương của các mạng Do Thái.
Tóm tắt:
            Ý nghĩa của "không gian" vượt quá ranh giới địa phương Đối với phần lớn của sự tồn tại của nhân học như một ngành học "không gian", chỉ ngầm hiểu hiện nay. Được coi như là một phần của môi trường "được cho  là" tự nhiên, nó được xem như vừa là  xác định vừa là cho phép sự hình thành của "nền văn hóa".
            Một mối quan hệ mạnh mẽ nếu không phải là bình đẳng giữa không gian lãnh thổ, xã hội và văn hóa thì ít nhất cũng là mặc nhiên thừa nhận. Do đó, các "lĩnh vực" vẫn không thể đòi hỏi như một trang web và vị trí để điều tra dân tộc học.
          Những quan niệm đã thay đổi đáng kể với sự khởi đầu của phê bình giải cấu trúc trong thập niên tám mươi và chin mươi. Trong quá trình chuyển đổi các lĩnh vực nhân học, những biện minh của các nghiên cứu thực địa chính nó đã đặt ra vấn đề. Các cấp độ địa phương đã được mô tả như là mất đi ý nghĩa của nó  việc đối diện với các dòng chảy di dân xuyên quốc gia và toàn cầu hóa.
          Bài viết này lập luận mạnh mẽ cho ý nghĩa lâu dài của không gian, và của " địa phương "như là một vị trí nơi mà quá trình toàn cầu được chuyển thành hành động hoặc đang được thành lập bởi thực tế. Các nghiên cứu về người di cư và giải quyết các mạng xuyên quốc gia với các đơn vị khảo sát mở rộng vượt xa ranh giới địa phương, nhưng điều này không có nghĩa là không gian và địa điểm đã mất đi ý nghĩa của chúng. Văn hoá các mô hình không gian có thể thậm chí đạt được ý nghĩa mới trong bối cảnh hải ngoại, như ví dụ người Hmong đã được hiển thị. Các nhà nhân học đô thị điều tra hình thức cụ thể của hành vi không gian (như là trong trường hợp Dublin) và kiến thức chuyên môn (như trong trường hợp Hamburg).Có hệ thống quan hệ giữa một số loại không gian đô thị và sự hình thành của cộng đồng hải ngoại xuyên quốc gia vẫn còn được khảo sát
Notes
1 Astrid Wonneberger, personal communication relating to a current research
project on urban transformation processes in the Dublin Docklands area,
October 2006.
2.References cited
3.Appadurai, Arjun (1991) Global Ethnoscapes: Notes and Queries for a Transnational
4.Anthropology. In: Fox, Richard J. (ed): Recapturing Anthropology:Working in
the Present. Santa Fé: School of American Research Press.
5.Bourdieu, Pierre (1976) Entwurf einer Theorie der Praxis auf der ethnologischen
Grundlage der kabylischen Gesellschaft. Frankfurt/M.: Suhrkamp.
6.Bourdieu, Pierre (1983) Ökonomisches Kapital, kulturelles Kapital, soziales
Kapital. In: Reinhard Kreckel (ed.): Soziale Ungleichheiten. In: SozialeWelt,
Sonderheft 2, S. 183-198.
7. Brah, Avtar (1996) Cartographies of Diasporas. Contesting Identities. London,
NewYork: Routledge.
8. Cesarani, David (ed.) (2002) Port Jews: Jewish communities in cosmopolitan
maritime trading centers, 1650-1950, London u.a.: Cass.
9. Cesarani, David, Gemma Romain (eds.) (2005) Jews and Port Cities, 1590-1990: Commerce, Community and Cosmopolitanism. London, Portland: Valentine
Mitchell.
I0. Fardon, Richard (ed.) (1990) Localizing Strategies: Regional Tradition of EthnographicWriting. Edinburgh,Washington, DC: Scottish Academic Press.
II.Gupta, Akhil, James Ferguson (eds) (1997) Culture, Power, Place: Explorations in Critical Anthropology. Durham, London: Duke University Press.
I2. Gupta, Akhil , James Ferguson (eds) (1997) Anthropological Locations: Boundaries and grounds of a field science. Berkeley: University of California Press.
I3.Hannerz, Ulf (1996) Transnational Connections: Culture, People, Places. London, NewYork: Routledge.
I4. Hauser-Schäublin, Brigitta,Michael Dickhardt (eds.) (2003) Kulturelle Räume –
Räumliche Kultur. Zur Neubestimmung des Verhältnisses zweier fundamentaler
Kategorienmenschlicher Praxis. Hamburg: Göttinger Studien zur Ethnologie, 10:
LIT Verlag.
I5. Kearney,Michael (1995) The Local and the Global: The Anthropology of Globalization and Transnationalism. In: Annual Review of Anthropology 24, S. 547-565.
I6. Kokot,Waltraud (ed.) (2004) Kultur der Obdachlosigkeit in der Hamburger Innenstadt. Eine ethnologsche Feldstudie. In: Lines, 1.
I7. Kokot,Waltraud, Khachig Tölölyan, Carolin Alfonso (eds.) (2004) Diaspora, Identity and Religion. New Directions in Theory and Research. London, NewYork.: Routledge.
I8. Kokot,Waltraud (2005) European Port Cities: Disadvantaged Urban Areas in
Transition. A collaborative project under the EUTransnational Exchange Programme Fight Against Poverty and Social Exclusion. Final Report. Hamburg,
Bruxelles (Ms.).
I9. Lavie, Smadar, Ted Swedenborg (eds.) (1996) Displacement, Diaspora and Geographies of Identity. Durham, London: Duke University Press.
20. Lovell, Nadia (ed.) (1998) Locality and Belonging. London: Routledge.
2I. Malkki, Liisa H. (1997) National Geographic: The Rooting of Peoples and the Territorialization of National Identity among Scholars and Refugees. In: Akhil Gupta, James Ferguson (eds) Culture, Power, Place. Explorations in Critical Anthropology. Durham, London: Duke University Press, S. 52-74.
22.Massey, Doreen (1996) Space, Place and Gender. Cambridge, Oxford (2nd edition, orig. 1994): Polity press.
23.Mazower,Mark (2005) Salonica. City of Ghosts. Christians,Muslims and Jews
1430 – 1950. London et al : Alfred A. Knopf.
24. Olwig, Karen Fog, Kirsten Hastrup (eds.) (1997) Siting Culture. The Shifting
Anthropological Object. London, NewYork: Routledge.
25. Olwig, Karen Fog (2004) Place,movement and identity: processes of inclusion
and exclusion in a ’Caribbean‘ family. In: Kokot,Waltraud, Khachig Tölölyan,
26. Carolin Alfonso (eds.) (2004) Diaspora, Identity and Religon. New Directions in Theory and Research. London, NewYork: Routledge.
27. Ratzel, Friedrich (1882) Anthropogeographie. Stuttgart: Engelhorn.
28.Schoenfelder,Maren (2000) VomForschungsareal zumForschungsgegenstand:
„Raum“ und seine Bedeutung für die Ethnologie. Hamburg: unpubl.MA.
29. Schwalgin, Susanne (2004)Why localitymatters: diaspora consciousness and
sedentariness in the Armenian diaspora in Greece. In: Kokot,Waltraud, Khachig
30.Tölölyan, Carolin Alfonso (eds.) (2004) Diaspora, Identity and Religon. New
Directions in Theory and Research. London, NewYork: Routledge.
3I. Stroux, Salinia (2006) Afghan, Iranian and Iraqi Street Vendors in Thessaloniki:Street Vending as Survival Entrepreneurship. Hamburg: unpubl.MA.
32.Tomforde,Maren (2006) The HmongMountains: Cultural Spatiality of the
Hmong in Northern Thailand. Hamburg: LIT Verlag.
33. Tylor, Edward B. (1971) Primitive Culture. London: Harper & Row.
Prof. Dr.Waltraud Kokot ist Professorin am Institut für Ethnologie der Universität
Hamburg.